Home » Tin Tức » Cộng Đồng Đức » Máu Giu-đa Vẫn Còn Tiềm Ẩm Trong Chúng Ta

Máu Giu-đa Vẫn Còn Tiềm Ẩm Trong Chúng Ta

Nhân dịp thánh lễ Giỗ lần thứ 51 cho cố TT Ngô Đình Diệm tại Đức Quốc, Frankfurt-Bonames, Lm Gioan Baotixita Đinh Xuân Minh chia sẻ bài viết sau:

Kính thưa qúi hội đoàn,

kính thưa qúi ông bà, và

anh chị em thân mến!

Tối rất hân hạnh và vui mừng được chia sẻ vài tư tưởng với qúi cộng đoàn, nhân dịp thánh lễ Giỗ lần thứ 51, cầu cho đại ân nhân của dân tộc là cố TT Ngô Đình Diệm cùng bào đệ Ngô Đinh Nhu. Cũng trong dịp này, chúng ta cùng cầu nguyện cho các Binh si, sĩ quan, vì lòng trung thành với Công lý và sự thật, cũng đã bị thảm sát đau thương tức tưởi, trong biến cố 01/11/1963.

Hôm nay, chúng ta cũng không quyên cầu nguyện cho những chiến sĩ đã hy sinh bỏ mình vì đại nghĩa, bảo vệ tự do dân chủ hòa bình. Chúng ta cũng cầu nguyện quốc thái dân an, để dân tộc mau chóng thoát khỏi tà quyền Cộng sản man rợ.

Năm nay, chúng ta cũng tưởng nhớ đến 60 năm, (1954-2014) cuộc chia đôi đất nước trong đau thương và nước mắt, vì dã thuyết Cộng sản áp đặt trên miền Bắc.

Thánh Lễ cầu cho TT Diệm năm nay, đúng vào ngày Lễ trọng Kính các Thánh Nam Nữ. (Thứ bảy, 01-11-2014).

Kính thưa qúi đoàn thể, ông bà anh chị em thân mến!

Hôm nay tôi xin được chia sẻ với qúy vị đề tài: Máu Giu-đa vẫn còn tiềm ẩm trong chúng ta.

Anh chị em thân mến!

Khi nói đến Giu-đa là chúng ta hồi tưởng ngay đến sự phản bội. Sự phản bội xẩy ra trong ngũ luân: Vua-tôi, cha-con, anh-em, vợ-chồng và huynh đệ. Trong năm quan hệ này, thì ba quan hệ: Quân-thần, Phụ-tử và phu-tử là quan trọng. Ta gọi đó là Tam Cương. Sự phản bội trong quan hệ Quân thần, đồng nghĩa với sự phản bội tổ quốc.

Mọi sự phản bội xẩy ra, đều vấp phải một trong ngũ thường. Ngũ thường là năm điều phải hằng có trong khi ở đời, gồm: Nhân, nghĩa, lễ, trí, tín.

Nhân là lòng yêu thương đối với mọi sinh vật

Nghĩa là cách cư xử với mọi người theo công bình lẽ phải

Lễ là sự tôn trọng hòa nhã trong cư xử với mọi người

Trí là sự thông biết lý lẽ, phân biệt thiện ác, đúng sai. Và

Tín là giữ đúng lời, đáng tin cậy.

Phản bội trong quan hệ cha-con: Điển hình là trường hợp Trường Chinh, Đặng Xuân Khu đấu tố cha, vì tham vọng chính trị.

Điển hình tiêu biểu, phản bội trong quan hệ huynh đệ, đó là cuộc đấu tố bà Nguyễn Thị Năm, trong vụ cải cách ruộng đất. Bà Nguyễn Thị Năm, còn gọi là bà Cát Hanh Long. Bà là người đóng góp gương mẫu nhất cho „tuần lễ vàng“.

Bà là người đã cho ăn, cho ở và bao che cho Võ Nguyên Giáp, Trường Chinh, Lê Đức Thọ, Hoàng Quốc Việt, v.v. khỏi chết khi bị lùng bắt. Nhưng bất nhân thay, viên đạn đầu tiên khai mào cho cảnh đấu tố man rợ, lại chính là nạn nhân: Nguyễn Thị Năm. Vụ phản bội này biểu lộ thật rõ bản chất tình đồng chí bất tín của Cộng sản.

Qua sự kiện này, trong dân gian, ta có câu ngạn ngữ: Bịt râu đeo kính. Câu thành ngữ ý ám chỉ: Hồ Chí Minh bịt râu và Trường Chinh đeo kính, để che mắt mọi người, tham dự cuộc đấu tố này.

Phản bội trong quan hệ Vua-tôi: Điển hình là trường hợp Đức Chúa Gie-su với Giu-đa; Và trường hợp TT Ngô Đình Diệm với nhóm hàng tướng, đứng đầu là Dương Văn Minh.

Chúng ta thấy. Tuy cùng ăn cùng bàn, cùng uống chung một chén, nhưng khi con người với nhận định chủ quan mù quáng, họ sẽ không còn phân biệt được đâu là thiện ác, đâu là sai trái. Để đạt tham vọng chính trị bất lương, họ sẽ dùng mọi mưu chước xấu xa bẩn thỉu. Dù đạp lên xác người mà đi, họ cũng không e ngại!

Nhóm phản tướng Dương Văn Minh, có lẽ cho rằng, TT Diệm cư xử không có nghĩa, độc tài thiên vị, kỳ thị Phật Giáo, cấm sinh hoạt của Phật Giáo. Thử hỏi, trong lịch sử Việt Nam, thời cận đại, những thời đệ Nhị Cộng Hòa, và trong triều đại Cộng sản Hồ Chí Minh hiện nay, thì thời nào, Tam Giáo đồng thịnh nhất? Thời nào người dân sống trong thanh bình thịnh vượng và an khang nhất? Thời nào người dân sống hưởng tự do dân chủ, hưởng thanh bình, nhân vị nhân bản con người được tôn trọng cao nhất?

Xin thưa! Chúng ta phải công tâm mà thú thật: Thời vàng son của dân tộc trong lịch sử cận đại, đó là thời Đệ Nhất Cộng Hòa. Và thiết nghĩ, những qúi vị cao niên, sống ở miền Nam, chắc hẳn đều đồng ý với tôi về nhận định khách quan này. Nếu không đúng, thì tại sao hằng năm, khắp nơi trên thế giới đã tổ chức thánh lễ tưởng nhớ đến vị vĩ nhân của dân tộc.

Giả nếu như Hồ Chí Minh là ân nhân của dân tộc. Vậy thử hỏi, có đoàn thể, cộng đồng liêm chính nào, tổ chức thánh lễ cầu cho bạo chúa Hồ Chí Minh không? Tuy cho rằng, nghĩa tử là nghĩa tận. Dù Hồ Chí Minh, vì mục đích chính trị, đã xin rửa tội, nhưng không một nhà thờ nào tổ chức Lễ Giỗ cho HCM.

TT Diệm đã chứng minh tài lãnh đạo của mình trong chín năm, tạo cho quốc thái dân an. Còn Dương Văn Minh, cầm quyền hai lần. Lần thứ nhất chỉ gần ba tháng với chính phủ Lâm thời bù nhìn Nguyễn Ngọc Thơ, do Dương Văn Minh lập ra. Lần thứ hai chỉ có ba ngày.

„Nước loạn nhờ tướng giỏi“, cha ông chúng ta khẳng định như thế. Thế, tướng Dương Văn Minh là loại tướng nào? Kết qủa xấu tốt, suy hay thịnh cho dân tộc, là câu trả lời chứng nghiệm rõ nhất.

Nhân đây, chúng ta xét về trường hợp quan hệ Quân-thần xẩy ra giữa Đức Chúa Giê-su với Giu-đa và TT Diệm với nhóm phản tướng Dương Văn Minh. (Tôi xin được đóng ngoặc mở ngoặc ra đây: Đứng trước biến cố 30/04/1975, thì thử hỏi, có phản tướng nào nhúng tay vào trong vụ đảo chính bất chính 02/11/1963, thề sống chết với dân? Hay họ chỉ nói bằng mồn, nhưng ba chân bốn cẳng, họ đã lo bỏ chạy? Đừng nghe họ nói, mà hãy nhìn kỹ họ làm!).

Qúi ông bà anh chị em có biết lý do tại sao Giu-đa phản bội Chúa không? Xin thưa, Vì lý do tham vọng chính trị. Giu-đa thuộc về nhóm Zelót, là một nhóm đấu tranh giải phóng dân tộc. Giu-đa là môn đệ Chúa Giê-su, ít gì cũng đã ba năm trời ròng rã, cùng đồng hành với Người, đi khắp nơi rao truyền tin mừng của Chúa.

Giu-đa nhận thấy Đức Chúa Giê-su có đủ quyền lực để giải phóng dân Do Thái khỏi ách thống trị của đế quốc La-Mã. Nhưng Đức Chúa Giêsu vẫn „thờ ơ“ trước vấn nạn quốc gia này. Vì thế, Giu-đa tìm mưu kế, để Đức Chúa Giê-su ra tay.

Mục đích tham vọng của Giu-đa là: sau này, sẽ được giữ chức vụ lớn trong triều đại Giê-su. Chính vì vậy, mười hai môn đệ đã một lần đặt ra câu hỏi, là ai là người có chức vụ cao nhất.

Để tham vọng chính trị thành đạt, Giu-đa giăng ra cái bẫy. Giu-đa tự xin làm Ăng-Ten cho đế quốc La-mã. Giu-đa chỉ điểm, tố cáo Đức Chúa Giêsu là người có chủ mưu lật đổ chế độ. Giu-đa muốn quân La-mã bắt đức Chúa Giê-su. Vì, có như vậy, thì Đức Chúa Giê-su mới phẫn nộ ra tay đuổi quân La-mã. Giu-đa đòi hỏi Đức Chúa Giê-su phải làm theo ý mình. Nếu không, Giu-đa phản. Và Giu-đa đã phản ý Chúa.

Nhưng khi quân La-Mã đến bắt Đức Chúa Giê-su, thì Người không những chạy trốn, mà còn tự ý nộp mình để cho quân dữ bắt.

Và cuối cùng, Người còn chịu chết đau khổ nhục nhã trên thập giá. Giu-đa còn chút lương tri, khi thấy mình đã phản bội Chúa. Mục đích tham vọng chính trị không thành, Giu-đa qúa tuyệt vọng và phải tự tìm cho chính mình cái chết, để tự giải oan cho sự mù quáng tham vọng chính trị của mình.

Kính thưa qúi hội đoàn!

Xét chung trong hai trường hợp giữa Đức Chúa Giê-su và TT Diệm, thì chúng ta tìm thấy có nhiều điểm tương đồng, nhưng cũng có vài điểm khác biệt:

Những điểm tương đồng là:

– Cả hai không chạy trốn, mà tự ý nộp mình trao cho quân dữ đem đi bắt.

– Cả hai, với quyền lực trong thay, có thể thay đổi tình huống, nhưng cả hai không lạm dụng quyền lực. Thà chịu chết để chứng minh ơn cứu độ cho mọi người, còn hơn gây ra tội ác. Con người đều phải chết một lần, chết vinh còn hơn sống nhục.

– Cả hai, biết mình sẽ bị giết.

– Cả hai, trước khi chết, đã cầu nguyện suốt đêm. Đức Chúa Giê-su trong vườn Giệt-sê-ma-ni. TT Diệm trong nhà thờ Cha Tam.

– Cả hai bị quân dữ trang bị vũ trang hùng hổ đến bắt. Quân dữ xem Đức Chúa Giê-su và TT Diệm như một tướng cướp đầy bạo lực. Họ bạch lộ chân tướng, suy bụng ta ra bụng người, khi chủ mưu giết TT Diệm, qua cung cách đón bắt các Ngài.

– Cải hai bị giết chết nhục nhã, oan ức tức tưởi.

– Cải hai phải mất gần 50 năm sau, nhân loại mới hiểu ý nghĩa của cái chết u nhục này.

– Cả hai, sau gần 50 năm, mới được cả thế giới noi gương và theo chân hai Người. Nay là tinh thần Ngô Đình Diệm bất diệt. Xưa là mã mật con cá, nay là biểu tượng thập giá.

– Cả hai là biểu tượng hình ảnh con chiêm bị đem đi giết.

– Đức Chúa Giê-su chịu chết, vì nhóm bảo thủ tôn giáo cực đoan cục bộ. TT Diệm bị giết, vì tham vọng chính trị của nhóm hàng tướng. Cả hai bị giết bởi một nhóm có thế lực trong nước.

– Cả hai bị đem đi giết vì hai yếu tố: Tôn giáo và chính trị.

– Trước khi đem đi giết, cả hai bị tra tấn. Đức Chúa Giê-su trong dinh quan Tổng Trấn Philatô. TT Diệm trong Bộ Tổng Tham Mưu.

– Kẻ phản bội: Giu-đa và đại úy Nhung. Cả hai đều tự tử. (Bị thủ tiêu trong tù, để giữ bí mật. Nếu việc làm chính đáng, thì phải vinh danh, không cớ gì phải thủ tiêu để giữ bí mật. Có bất chính mới phải làm như thế!)

– Trị giá thưởng công cho kẻ giết người, xưa cũng như nay, cách gần 2000 năm, cũng gần tương đương với nhau.

Sau đây vài điểm khác biệt:

Giu-đa thì mượn quân ngoại bang giết Chúa. Ngược lại, nhóm tài Phiệt ngoại bang Mỹ lại dùng người Việt giết người Việt.

Giu-đa bán Chúa được 30 nén vàng do đế quốc ngoại bang thưởng. Nhóm tay sai phản Tướng giết TT Diệm thì được vài trăm ngàn Đôlla, cũng do nhóm tài Phiệt ngoại bang thưởng.

Dù biến cố xẩy ra cách nay trên 2000 năm, nhưng giống nhau thật nhiều chi tiết. Tuy nhiên, có sự khác biệt rõ rệt, đó là: Đức chúa Giê-su được triệu ra trước quan tòa Tổng trấn Philatô. Còn TT Diệm không được điều ra tòa án, trước khi xử án.

Vua Philatô đã xét xử. Và đã phán quyết, là „không tìm thấy người này có tội“. Nhưng đứng trước sự bất bình mù quáng, bè phái cục bộ tôn giáo, lòng ích kỷ, tham vọng của nhóm Thượng đế, Philatô đã rửa tay, để làm chứng, là ông ta không nhúng tay trong vụ giết người công chính vô cớ này.

Chính Đức Chúa Giê-su cũng nói quân dữ: Tại sao các ngươi đánh ta, nếu ta làm đúng. Còn TT Diệm thì nói với cha Tam trước đi đi nộp mình: „Mình có làm gì sai trái mà phải lẩn trốn?“.

Nếu ngày nay, có quan tòa lập ra xét xử biến cố 02/11/1963, thì dĩ nhiên, TT Diệm sẽ trắng án. Mong có được phiên tòa như thế, vì một số nhân chứng vẫn còn sống.

Qua hai cách phán xử, thì chúng ta thấy cách phán quyết của nhóm phản tướng Dương Văn Minh qủa ư là qúa man rợ. Giết người không có luật pháp công minh xét xử. Cảnh giết người như thế, biểu lộ con người không có văn hóa, thiếu nền văn minh nhân bản. Nói chung, cách hành xử của nhóm phản tướng Dương Văn Minh là bất chính. Gỉa như họ có chính nghĩa, tôi nói gỉa như họ có chính nghĩa, nhưng chúng ta xét đoán qua lối hành xử của họ, thì họ có khác gì như một nhóm cao bồi du đãng?!

Để kết luận, chúng ta có nhận định sau:

Kẻ phản bội tự mình xấu hổ phải đi tìm cái chết. Kẻ phản bội là kẻ vu khống, vu oan cáo vạ cho người khác, vi phạm đến nhân phẩm người khác. Họ tự đưa mình sa vào vòng vi phạm luật pháp.

Từ những nhận định chủ quan mù quáng, từ lòng đố kị ganh tương, do lòng tham vọng chính trị, từ kiểu cách bảo thủ cực đoan, cục bộ tôn giáo, mà đã biến con người thành dã thú, bất nhân.

Kính thưa qúi cộng đoàn!

Máu của Giu-đa vẫn còn thấm máu trong nhiều người chúng ta. Giu-đa là kẻ gián điệp, làm Ăng-ten cho ngoại bang, vì tham vọng chính trị quyền lợi.

Đức Chúa Giê-su chết, vì sự cứng lòng bảo thủ, cục bộ tôn giáo của các Thượng Phẩm Do Thái kiêu ngạo.

Xưa kia, các phản tướng giết TT Diệm và bào đệ Ngô Đình Nhu, thì họ dựa vào vì lý do gì?

Cái cớ gì, để họ giết vị TT khả kính chấp chính, chính danh qua bầu phiếu tự do? Lý do cục bộ tôn giáo cực đoan? Lý do hận thù ganh tị cá nhân? Hay lý do tham vọng chính trị?

Nếu giết TT Diệm, vì lý do chính trị, thì thật là lý do không đứng đắn. Vì, TT Diệm là một người ái quốc gương mẫu, không những được cả nước mến phục, mà cả các cường quốc, các quốc gia lân bang cũng phải thừa nhận.

Giết TT Diệm, vì lý do kỳ thị tôn giáo? Vậy tại sao TT Diệm không kỳ thị tôn giáo Cao Đài Hòa Hảo, hay tin Lành, hay Hồi Giáo?

Vậy chúng ta hãy nhìn những thành phần nội các bù nhìn của Nguyễn Văn Thơ, do Dương Văn Minh lập ra? Chính phù này có kỳ thị tôn giáo không? Chế độ Nguyễn văn Thơ có gia đình trị không?

Như đã trình bày, không thời kỳ nào Tam Giáo đồng thịnh như thời Đệ Nhất Cộng Hòa. Chẳng nhẽ lấy danh nghĩa tôn giáo mà giết một vị TT chính danh một cách dã man như một ác qủy, mà gọi được là đường chánh đạo sao? Người lãnh đạo không nhân đức thì làm sao thiết lập một nước nhân bản được. Kẻ nào hành xử bất chính, kẻ đó không thể thiếp lập một quốc gia pháp trị được.

Lãnh đạo nào, quốc gia đó! Lãnh đạo là bọn cường hào ác bá, thì sinh ra cũng toàn bọn tay sai là côn đồ du đãng. Chính họ cũng sẽ tự đón nhận hậu qủa của những kẻ bất nhân này. Kẻ ác trồng cây dữ, họ sẽ tự ăn qủa đắng, trái cay! Chúng ta thử suy gẫm tình hình hiện nay ở Việt Nam! Công an cấu kết với côn đồ, để hội đồng nhân dân. Thử hỏi, có phải nhà nước là phường côn đồ không?! Có phải đúng là một băng đảng, cá mè một lứa không?!

Để kết luận chúng ta có nhận định rõ rằng: Kẻ giết TT Diệm, cố vấn Ngô Đình Nhu, cùng những tướng sĩ cao cấp, trong biến cố 02/11/1963, họ là những Ăng-ten cho ngoại bang, họ là đảng viên CSVN hay cảm tình viên của đảng này. Trong họ vừa là kẻ phạm pháp, vừa là đao phủ. Trong họ không bao giờ có Công lý, sự thật công bằng và đạo lý. Ai theo họ, sẽ tự mình, tìm gán cho chính mình bản án: bất nhân, bất nghĩa, và bất tín!

Kính thưa qúi nhân sĩ hội đoàn!

Anh chị em thân mến!

Trước khi Đức Chúa Giê-su tắt hơi thở cuối cùng trên thập giá, Ngài cầu nguện cùng Chúa cha rằng: “Lạy cha, xin tha tội cho họ, vì họ không biết việc họ làm”. (Lc 23, 43) Thời sinh thời, TT Diệm là người nổi tiếng về tính hiền lành nhân hậu. Tôi tin rằng, nay trước nhan thánh Chúa, Người cũng cầu xin cho nhóm phản tướng: “Lạy Cha, xin Cha tha tội cho họ, vì họ không biết việc họ làm!”.

Amen!

Thứ bảy, ngày 01.11.2014, tại Đức Quốc, Frankfurt-Bonames

Lm Gioan Baotixita Đinh Xuân Minh