Home » Tin Tức » Mười Phút Lội Ngược Dòng

Mười Phút Lội Ngược Dòng

 
Hoang My Lam Berlin 25-4-17 Unsichtbar

Bản dịch bài diễn văn ngày 25.4.2017 tại Friedrich Ebert Stiftung (  do chính diễn giả tự dịch ) 

Tại sao chúng tôi phải trốn  chạy ? Câu trả lời : khi quê hương trở thành địa ngục thì người ta phải bỏ ra đi .

Kính thưa quý vị,

Hai cụ thân sinh của tôi đã phải  bỏ chạy từ bắc vào nam năm 1954 trước sự đe dọa tính mạng vì  cuộc cải cách ruộng đất của nhà cầm quyền Cộng Sản. Khi đó tôi được 3 tuổi .

Gia đình chúng tôi thuộc vào một triệu người miền bắc di cư vào nam trong thời điểm này.

Vào Nam cha tôi làm việc trong sở Hỏa Xa tại Qui Nhơn . Từ năm 55 đến năm 59 chúng tôi sống trong hòa bình mặc dù cuộc chiến du kích của Việt Cộng đã nổi lên lẻ tẻ ở các địa phương từ năm 57.

Năm 1960 cha tôi bị triệu hồi về Saigon vì các cuộc tấn công của Việt Cộng vào đường sắt ngày càng tăng . Thời gian ngắn sau đó  thì các  đường sắt và toa tàu bị mìn của Việt Cộng phá hủy cho đến nỗi  cả hệ thống đường sắt nối  Saigon đến tận Huế hoàn toàn bị tê liệt.

Tại Saigon tôi đã tiếp tục hoàn tất chương trình Trung học phổ thông để bước vào Đại Học Y Khoa Saigon .

Ở hậu phương Saigon người ta chỉ cảm nhận sự tàn nhẫn của chiến tranh qua các vụ khủng bố của Việt Cộng như ném lựu đạn vào các đám đông trong trung tâm thành phố hay những đêm bị  Việt Cộng pháo kích bắn  từ ngoại ô vào các quận ở  Saigon . Ngay cả những chuyến đi dã ngoại ngoài thành phố của Sinh Viên Học Sinh cũng nguy hiểm chết người vì các con đường bị Việt Cộng cài mìn.

Các thanh niên miền nam phải nhập ngũ tòng chinh  . Họ chiến đấu cho chúng tôi , cho những người dân ở Saigon yên ổn sống , yên ổn học hành …Hàng triệu người chết và bị thương nơi tiền đồn  hoặc thành nạn nhân của các cuộc truy sát đẫm máu của  Việt Cộng  mà điển hình là vụ giết dân trong Tết Mậu Thân 1968.  Họ là cha , là anh em , là bạn bè , bạn học của chúng tôi.

Mặc cho sự tấn công của Việt Cộng trên mọi lãnh vực , từ chính trường đến chiến trường , chính phủ VNCH đã xây dựng được:

Một chính thể pháp quyền thực thi  những  giá trị căn bản của nhân quyền.
Một hệ thống trường công lập miễn phí từ tiểu học đến đại học và một hệ thống nhà thương công miễn phí
Phát triển đời sống văn hóa. Chúng tôi đã có hàng ngàn văn sĩ , thi sĩ , nhạc sĩ , hàng trăm tờ báo độc lập , hàng trăm ngàn đầu sách và vô số nhạc phẩm giá trị
Cuộc sống của tôi thời đó cũng giống như cuộc sống của tất cả sinh viên trên thế giới : bên cạnh học hành tôi thích đọc sách , mê nghe nhạc và muốn mở rộng kiến thức ra toàn thế giới .

Sau khi  thất thủ vào ngày 30.4.1975 toàn miền Nam chịu sự trả thù dưới hình thức  đô hộ và khủng bố của kẻ chiến thắng . Nhà cầm quyền mới là một thể chế cộng sản toàn trị với bạo lực cộng sản mà không hề có hệ thống lập pháp và tư pháp .

Như vậy có nghĩa là một đất nước không có pháp luật .

Miền nam Việt Nam trở thành một nhà tù lớn sau bức màn sắt . Sách vở , ngay cả sách giáo khoa và văn chương , đều bị đốt phá. Âm nhạc bị  cấm hoàn toàn . Con người bị bắt mà không qua bất cứ một quá trình xét xử.

Hàng trăm ngàn thanh niên miền nam bị bắt giữ trong trại cải tạo , nhiều người đã bị tra tấn nhục hình đến chết. Vợ con họ bị đuổi đi vùng Kinh Tế Mới , nơi mà chỉ có đất hoang và bàn tay trắng.

Sau 3 năm học giáo điều chính trị trong Đại Học tôi được phân phối làm việc trong một bệnh viện . Trong Bệnh Viện thì sự thất vọng và phẫn nộ lại còn nhiều hơn . Những người miền bắc nắm trọn chức vụ lãnh đạo , và họ rất yếu kém về hiểu biết ,  từ kiến thức tổng quát đến kiến thức chuyên môn.

Tư tưởng  được uốn nắn theo chủ nghĩa Mác-Lê . Bất cứ hình thức tư tưởng suy nghĩ nào khác đều không được chấp nhận . Chúng tôi không còn một hy vọng nào cho tương lai.

Con người không những chỉ cần ăn và uống . Tâm hồn và linh hồn cũng cần thức ăn. Tư tưởng không ai kiểm soát được , nhưng khi tư tưởng không thoát ra được và con người hàng ngày phải kiếm sống để tồn tại thì tư tưởng sẽ bị vùi chết theo ngày tháng.

Vì không gian sống của tôi , từ riêng tư đến nghề nghiệp , càng ngày càng chật hẹp lại khiến tôi như nghẹt thở trong môi trường đó.

Cuối cùng chỉ còn vượt biên  là cách giải quyết. Vượt biên là đồng nghĩa với chấp nhận cái chết và lìa bỏ người thân.

Ngày 17.4.1979 tôi chạy trốn với một ngưới bạn học , cô ta hiện đang sống tại Paris . Chúng tôi gồm 297 người đi cùng một tàu đánh cá. Con tàu dài 18mét , ngang 3 mét . Trong 4 ngày lênh đênh trên biển chúng tôi bị hải tặc Thái cướp hai lần nhưng may mắn không bị hãm hiếp.

Ngày 21.4.1979 chúng tôi cập vào  bãi biển Trengganu / Mã Lai . Ba ngày sau chúng tôi được tàu của Cao Ủy đưa về tập trung ở đảo tỵ nạn Pulau Bidong. Tại đảo tôi làm việc trong Bệnh Viện Sick Bay và chăm sóc cho trên 100 phụ nữ bị hải tặc Thái hãm hiếp , có vài nạn nhân chỉ mới 13 tuổi và bị nhiễm trùng rất nặng.

Ngày 5.3.1981 tôi đến Tegel Berlin trên một chuyến bay của hãng Lufthasa . Tôi đến một mình.

Kính thưa quý vị,

Ở Berlin tôi trú ngụ tại một trại tỵ nạn  và được học mơ6t khóa tiếng Đức 8 tháng. Không lâu sau đó tôi lập gia đình . Sau khi sanh cháu bé thứ hai thì bằng cấp y khoa của tôi được chính phủ Đức công nhận.

Tôi bắt đầu làm việc tại Bệnh Viện Westend. Từ năm 1986 cho tới khi tôi về hưu vào tháng 9 năm ngoái , tức là tròn 30 năm , tôi phục vụ người bệnh tại Bệnh Viện Bethel Lichterfelde Berlin .

Tại Berlin tôi có một cuộc sống toại nguyện . Tôi có thể sống như ý tôi muốn vì nơi đây phẩm giá con người được tôn trọng  ( câu này là câu đầu tiên nằm trong hiến pháp Đức ).

Tôi đọc nhiều , viết các tiểu phẩm , thưởng thức những bản nhạc tôi yêu thích mà không sợ phải bị bắt . Tôi tận hưởng một cuộc sống đa văn hóa và tin vào sự bảo vệ của luật pháp Đức.

Kính thưa quý vị,

sau gần 40 năm hầu hết những người Việt tỵ nạn đả thành công dân Đức có nguồn gốc di dân. Chúng tôi đã hội nhập hầu như toàn diện.

Dầu vậy lòng chúng tôi vẫn  hướng về quê hương. Đất nước VN sau 42 năm hậu chiến bây giờ ra sao .

Theo Tổ chức Ân Xá Quốc Tế thì tình trạng Nhân Quyền ở VN không hề tiến triển. Ở hải ngoại người Việt bị theo dõi . Trong nước thì các vi phạm Nhân Quyền vẫn xảy ra hàng ngày.

Cách đây 3 tuần , vào ngày 5.4.2017 Hội Đồng Thẩm Phán Đức đã tao giải Nhân Quyền cho Luật Sư Nguyễn Văn Đài . Ông  Nguyễn Văn Đài là người luật sư dấn thân ngay từ đầu để bảo vệ các giá trị của Nhân Quyền . Ông đã ngồi tù nhiều lần và lần cuối là từ tháng 12/2015 cho đến nay . Vợ của ông cũng bị cấm cảnh không được rời VN để đi nhận giải cho chồng . Do vậy mà Tổng Thống Đức Steinmeier phải trao giải cho một người đại diện.

Bên cạnh những vi phạm Nhân Quyền thì tình trạng ô nhiễm môi trường đang xảy ra hàng loạt tại VN.  Chỉ riêng vụ Formosa trong tháng tư 2016 tại Vung Ang Ha Tinh đã có hàng tấn cá chết dọc theo hàng trăm cây số bờ biển miền trung Việt.

Sanh mạng con người ở các vùng dó bị đe dọa vì môi trường bị nhiễm độc . Vì tham nhũng và độc quyền lộng hành nên các thảm họa môi trường tại VN bị che dấu trước công  luận quốc tế.

Vì thế tôi kêu gọi quý vị khi đầu tư vào VN , dù chỉ là trợ giúp phát triển hay giao dịch thương mại , xin hãy đặt Tự Do Dân Chủ và Nhân Quyền trước lợi nhuận kinh tế.

Nước Đức là một nước gương mẫu về Dân Chủ và Nhân Quyền . Xin hãy đừng chỉ xuất cảng hàng hóa mà hãy xuất cảng cả những giá trị nhân bản của Đức cho một cuộc sống đáng làm người .

Kính thưa quý vị

Tôi là một nhân chứng cho một thời đại đen tối của lịch sử VN . Những gì tôi vừa phát biểu là những lời xuất phát từ trái tim tôi . Trái tim của một người tỵ nạn yêu Tự Do và Dân Chủ.

Xin cám ơn quý vị đã lắng nghe.

Berlin ,25.4.2017

HTML